Phần 2: Bí mật, độc đáo và sáng tạo
Chuyển hàng xuống tàu chi viện cho chiến trường miền Nam (tháng 11/1968).Nguồn: https://baohaiquanvietnam.vn/tin-tuc/duong-ho-chi-minh-tren-bien-su-sang-tao-doc-dao-cua-nghe-thuat-quan-su-viet-nam
Từ tháng 8/1963, Đoàn 759 được giao cho Quân chủng Hải quân phụ trách trực tiếp, đảm đương nhiệm vụ vận chuyển, chi viện đường biển cho các chiến trường miền Nam. Ngày 29/01/1964, Bộ Quốc phòng quyết định đổi phiên hiệu Đoàn 759 thành Đoàn 125 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Trong hơn 3 năm hoạt động (1962 - 1965), Đoàn 125 đã huy động 17 tàu vỏ sắt, 3 tàu vỏ gỗ, tổ chức 79 chuyến vận chuyển hơn 4 nghìn tấn vật chất, chủ yếu là vũ khí, đạn dược cho các tỉnh ven biển thuộc chiến trường Khu 5, Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đặc biệt, Đường Hồ Chí Minh trên biển còn đảm đương một sứ mệnh cực kỳ quan trọng là đưa đón hàng chục nghìn lượt cán bộ của Đảng, của quân đội, chuyên gia quân sự vào miền Nam; từ miền Nam ra miền Bắc báo cáo Trung ương, nhận chỉ thị mới để kịp thời bổ sung cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam
Tuy nhiên, tháng 02/1965, chiếc tàu sắt số hiệu C143 sau khi bốc dỡ xong hơn 63 tấn vũ khí, neo kín vào vách núi ở Vũng Rô (Phú Yên) để chờ quay đầu, nguỵ trang bằng lưới và cành cây, nhưng sau đó vẫn bị máy bay Mỹ phát hiện, tấn công. Bộ đội đã tìm nhiều cách huỷ nổ tàu nhưng một phần thân tàu vẫn bị địch trục vớt đưa về Sài Gòn, sau sự kiện này, đối phương tăng cường đẩy mạnh hoạt động tuần tiễu ngăn chặn, chống xâm nhập. Đoàn 125 Hải quân đã phải chuyển hướng hoạt động, sử dụng các đội tàu bí mật đi theo đường hàng hải quốc tế đưa hàng vào các bến tiếp nhận. Đến tháng 02/1968, gặp sự cản trở của đối phương ngày càng gay gắt, Đường Hồ Chí Minh trên biển phải tạm dừng hoạt động. Từ 1965 - 1968, Đoàn 125 đã tổ chức 27 chuyến tàu, trong đó chỉ có 7 chuyến tàu tới đích, giao được hơn 4 trăm tấn hàng quân sự cho các chiến trường
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, tận dụng thời điểm không quân Mỹ tạm ngừng ném bom miền Bắc, Đoàn 125 đã vận chuyển được một khối lượng hàng lớn tới các địa điểm vùng giới tuyến. Ngoài ra, còn tổ chức vận chuyển hàng viện trợ quân sự của các nước anh em bằng tàu biển quốc tế, quá cảnh qua cảng Sihanoukville (Campuchia). Bằng cách này, Đoàn 125 đã đưa vào chiến trường miền Nam hơn 90 nghìn tấn hàng hóa, trong đó có hơn 20 nghìn tấn vũ khí, đạn dược. Từ cuối năm 1970, sau khi tuyến đường vận chuyển qua cảng Sihanoukville bị cắt đứt, Đoàn 125 đã chủ động tìm đường vận chuyển mới bằng cách men theo phía Đông các quần Đảo Hoàng Sa, Trường Sa đến vùng biển Đông Bắc Malaysia, qua Vịnh Thái Lan, khu vực quần đảo Nam Du để đưa tàu cập các bến bãi miền Tây Nam Bộ. Tuy phải đi vòng rất xa, phải dự trữ đủ lượng xăng dầu, lương thực cần thiết cho một chuyến đi dài ngày; phải đối mặt với bao thách thức, cam go, nhưng bằng con đường này, Đoàn 125 đã giao được 301 tấn vũ khí, đạn dược cho Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đây là một cố gắng lớn của Đoàn 125 trong điều kiện bị đối phương tăng cường bao vây, ngăn chặn, đánh phá ác liệt.
Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đoàn 125 tạm dừng nhiệm vụ vận chuyển, chi viện trực tiếp cho các chiến trường miền Nam bằng Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, các đội tàu của Đoàn 125 lại tiếp tục vận chuyển thực hiện thành công 173 chuyến, vận chuyển hơn 8.000 tấn vũ khí hạng nặng, 50 xe tăng, đưa hơn 18.700 cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường chiến đấu; trong đó, Đoàn 125 phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, địa phương thuộc Quân khu 5, vận chuyển Bộ đội Hải quân và lực lượng, cơ động chiến đấu trên biển của quân khu, giải phóng toàn bộ các đảo ven bờ và quần đảo Trường Sa.
Trong suốt 14 năm (1961 - 1975), cán bộ, chiến sĩ “Đoàn tàu không số” đã lập nên những kỳ tích anh hùng trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, ác liệt, đã có rất nhiều cán bộ chiến sỹ, những người con của đất nước mãi mãi nằm lại biển xanh để bảo vệ sự an toàn tuyệt đối của con đường. Từ chỗ ngày đầu chỉ với những con tàu gỗ thô sơ và 38 cán bộ, chiến sĩ làm nòng cốt đã phát triển lên những đội tàu vỏ sắt, hoạt động xa bờ, tận dụng đường hàng hải quốc tế và cả vùng biển nước bạn, đi bằng hàng hải thiên văn, trà trộn vào những tàu thuyền của ngư dân hoạt động ven biển để cập bến an toàn. Mặc dù phải đối mặt với đối phương có ưu thế vũ khí, phương tiện chiến tranh kiểm soát trên không, trên biển, nhưng cùng với Đường Hồ Chí Minh trên bộ, tuyến vận tải chiến lược trên biển song song hoạt động, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên một hệ thống vận tải tương đối hoàn chỉnh, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện kịp thời, hiệu quả sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, cùng với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Di tích Đường Hồ Chí Minh trên biển. Nguồn: Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh