Những vận động chính trị nhằm thay đổi chính sách của Mỹ đối với Việt Nam

Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ rơi vào tình trạng nghi kỵ, căng thẳng kéo dài. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là một vấn đề trăn trở đối với nhiều người Mỹ, đặc biệt là đối với các cựu binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Trở về từ cuộc chiến, những cựu binh Hoa Kỳ muốn làm gì đó để giúp đỡ đất nước và người dân Việt Nam. Trường hợp của cựu binh Bobby Muller là một ví dụ tiêu biểu. Trong chiến tranh tại Việt Nam, Bobby Muller là lính thuỷ quân lục chiến, bị thương và bị liệt toàn bộ từ hông trở xuống. Trở về Hoa Kỳ, Bobby Muller trở thành Chủ tịch Quỹ Cựu binh Mỹ tại Việt Nam. Ông có nhiều mối quan hệ đặc biệt với các nhân vật quyền lực trong chính giới Hoa Kỳ, trong đó có thượng nghị sỹ Patrick Leahy. Khi biết thượng nghị sỹ Patrick Leahy thành lập Quỹ "Hỗ trợ Nạn nhân Chiến tranh Leahy” để hỗ trợ những nạn nhân chiến tranh trên khắp thế giới. Bobby Muller đã tìm đến văn phòng của thượng nghị sỹ Patrick Leahy, tìm cách đưa quỹ này vào hỗ trợ các nạn nhân chiến tranh ở Việt Nam. Lúc đó quan hệ giữa hai nước chưa phát triển, việc hỗ trợ đối với Việt Nam nếu có, sẽ được xem là một khoản viện trợ nước ngoài. Những động thái trên không phải là cá biệt trong hàng ngũ các cựu binh Mỹ.

Với những trải nghiệm của mình ở Việt Nam, nhiều cựu binh Mỹ nhận thấy rằng Việt Nam là một quốc gia có một bề dày lịch sử lâu dài, phong phú. Giữa hai nước có thể tồn tại một số bất đồng nhưng cần phải làm gì đó để đưa hai nước xích lại gần nhau dù những dự định muốn thúc đẩy bình thường hoá hay cải thiện quan hệ với Việt Nam luôn gặp phải sự chỉ trích là phản quốc.

Những người ủng hộ việc bình thường hóa quan hệ mạnh nhất là 2 cựu chiến binh John Kerry và John McCain. Hai ông đều từng tham chiến tại Việt Nam. Họ cùng với một số cựu binh khác như ông Chuck Hagel (về sau là Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ), ông Thomas J. Vallely (người đang thúc đẩy rất mạnh dự án đại học Fulbright) ủng hộ tiến trình bình thường hóa quan hệ 2 nước. Các cựu binh này là những người có vị trí trong đời sống chính trị Hoa Kỳ nên có điều kiện thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ.

Ảnh: Thượng nghị sĩ John McCain trong một lần quay trở lại thăm Việt Nam

 

Từ một tù binh bị giam giữ ở Việt Nam, thượng nghị sĩ John McCain đã có những nỗ lực không biết mệt mỏi trong sự nghiệp của mình để hóa giải mối hận thù, kiến tạo hòa bình giữa hai đất nước. Ngay từ năm 1977, McCain đã nổi tiếng là người ủng hộ nhiệt thành cho mối quan hệ gần gũi hơn giữa Việt Nam và Mỹ. Ông lần đầu tiên trở lại Hà Nội vào năm 1985, 10 năm trước khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước được khôi phục.

Tạo được ảnh hưởng quan trong và to lớn lên các quyết sách của chính phủ Hoa Kỳ đối với mối quan hệ Việt - Mỹ còn có các nhóm cựu chiến binh, đặc biệt là tổ chức VWVA (Vietnam Veterans of America). VVA cho rằng Mỹ không nên duy trì chính sách cô lập đã lỗi thời chống Việt Nam. Việc cải thiện quan hệ với Việt Nam sẽ giúp các cựu binh Mỹ khắc phục được những chấn thương tâm lý khi ho có thể quay lại nơi từng là chiến trường và giải toả nguồn gốc của mọi lo âu căng thẳng, qua đó giúp giảm bớt ảnh hưởng của “Hội chứng Việt Nam” trong lòng nước Mỹ. VVA có mối liên hệ chặt chế với các cựu chiến binh là thành viên Quốc hội Mỹ, một số Thượng nghị sĩ, điển hình như John Kerry, John Mc Cain hay Pete Peterson. Điều này khiến tiếng nói của ho được Quốc hội lắng nghe nhiều hơn so với những tổ chức khác.

Những vận động ngoại giao tiến tới bình thường hoá mối quan hệ giữa Việt Nam - Hoa Kỳ.

Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, trong bối cảnh chính trường Mỹ còn chưa quên mối hận thất trận và vấn đề tù binh chiến tranh cũng như lính Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam (POW/MIA) được chính trị hóa. Năm 1991, một Ủy ban đặc biệt về các vấn đề tù binh và người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam được thành lập, Thượng nghị sĩ John Kerry làm chủ tịch Ủy ban này. Thành viên Ủy ban còn có John McCain và một số nhân vật nữa là cựu binh trong chiến tranh Việt Nam. Trách nhiệm của Ủy ban là điều tra số phận của các quân nhân Mỹ được liệt kê là mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Lúc đó, dư luận Mỹ cho rằng ở Việt Nam vẫn còn người Mỹ còn sống. Họ bị giam giữ để làm con tin và đòi bồi thường. Để làm rõ mối hoài nghi trên nhiều thành viên trong Ủy ban, trong đó có thượng nghị sĩ John Kerry cùng một số người khác đã trở lại Việt Nam để khảo sát chương trình tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam.

Ảnh: Thượng nghị sĩ Mỹ John Kerry trong một chuyến đi tới Hà Nội để điều tra, khảo sát về vấn đề POW/MIA tháng 11/1992.

 

Sau một quá trình làm việc nghiêm túc và sự hợp tác đầy thiện chí của Việt Nam, báo cáo dày 223 trang của Ủy ban nói trên (do Thượng nghị sĩ John Kerry làm chủ tịch) kết luận: "Không có bằng chứng thuyết phục nào chứng minh rằng còn có người Mỹ vẫn còn sống và làm tù binh tại Đông Nam Á”. Không chấp nhận kết luận này, tại Washington, một "mặt trận” chống John McCain và John Kerry hình thành. Cuộc điều tra thứ hai được yêu cầu. Một lần nữa, báo cáo của Ủy ban Thượng viện đặc trách vấn đề POW/MIA ngày 13/1/1993 kết luận “không còn tù binh Mỹ ở Việt Nam”. Báo cáo hoàn thành thời điểm ông Bill Clinton vừa bước vào Nhà Trắng. Trong cuộc gặp quan trọng với Tổng thống ngày 11/6/1993 tại phòng Bầu dục, cùng với thượng nghị sĩ John Kerry, thượng nghị sĩ John McCain đã thuyết phục Tổng thống Bill Clinton bãi bỏ cấm vận Việt Nam mà theo các ông thì đó là “vấn đề danh dự quốc gia bởi Việt Nam đã làm tất cả những gì mà chúng ta yêu cầu (liên quan POW/MIA)”. Một tuần sau, ngày 19/6, khi Tổng thống Clinton đến Đại học Northeastern, thượng nghị sĩ Kerry và McCain cũng tháp tùng, với mục đích liên tiếp đề cập vấn đề Việt Nam trong chương trình nghị sự của Tổng thống. Tháng 1/1994, Nghị quyết của Thượng viện vê việc xóa lệnh cấm vận Việt Nam do John Kerry và John McCain soạn được chính thức bàn thảo tại Quốc hội. John McCain thuyết phục 20 nghị sĩ Cộng hòa ủng hộ. Nghị quyết được thông qua, với tỉ lệ 62 thuận/38 chống. Với sự xuất hiện Nghị quyết Thượng viện, chính quyền Tổng thống Clinton đã nới lỏng các biện pháp trừng phạt áp dụng chống Việt Nam. Ngày 4/2/1994, tờ New York Times đã chạy hàng tít “Clinton bãi bỏ lệnh cấm vận 19 năm cho Việt Nam”. Trên hàng tít là tấm ảnh (bé gái) Kim Phúc bị bỏng bom napalm của Nick Út. Dẫu đã có những bước tiến lớn, quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ vẫn gặp phải những trở ngại từ những người đối lập. Kerry và McCain lại tiếp tục những nổ lực của mình. Ngày 23/5/1995, Kerry và McCain gặp Tổng thống Clinton trong Phòng Bầu dục. Một lần nữa, hai thượng nghị sĩ trình bày lý do và biện giải cho sự cần thiết tái lập ngoại giao với Việt Nam. McCain nói: “Đối với tôi chẳng có ý nghĩa gì cả, thưa tổng thống, khi đề cập về những ai ủng hộ hoặc phản chiến. Tôi quá mệt mỏi nhìn lại quá khứ bằng sự oán giận. Điều quan trọng bây giờ là chúng ta phải tiến về phía trước”. Ngày 11/7/1995, Tổng thống Clinton triệu tập thành viên nội các, viên chức quân sự cấp cao, các nhân vật chủ chốt Quốc hội, lãnh đạo tổ chức cựu chiến binh... đến Nhà Trắng. Đứng trước bục phát biểu, Tổng thống Clinton tuyên bố: "Hôm nay, tôi tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam”. Trong diễn văn của mình, Tổng thống Clinton nhấn mạnh: “Thời khắc này giúp chúng ta có cơ hội băng lại vết thương của chính mình. Chúng đã chống lại thời gian quá lâu. Bây giờ chúng ta có thể tiến đến phía trước trên nền tảng chung. Tất cả những gì ngăn chia chúng ta trước kia, hãy để lại cho quá khứ. Hãy để thời khắc này, nói theo Kinh Thánh, là lúc để hàn gắn, là lúc để xây dựng”. Kế đó, Tổng thống Bill Clinton quay sang người đứng sát bên, John McCain. Họ bắt tay và ôm nhau. Rồi ông lại tiếp tục quay sang John Kerry... Trong bối cảnh lịch sử đó, John McCain đã phát biểu: “Tôi ủng hộ quyết định hôm nay của tổng thống về việc khôi phục lại quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây không phải là quyết định dễ dàng cho bất kỳ tổng thống nào. Tổng thống Clinton đã thể hiện sự can đảm và đáng kính trọng trong quyết tâm của mình”

Ảnh: Tổng thống Clinton đọc diễn văn bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Đứng phía sau tổng thống Clinton là hai thượng nghị sĩ John McCain và John Kerry

Điều đặc biệt là sau đó, một cựu binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam - Pete Peterson đã được quốc hội Mỹ phê chuẩn để trở thành đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam sau năm 1975. Đại sứ Peterson, người đã từng là phi công của Không lực Hoa Kỳ trong chiến tranh ở Việt Nam và có sáu năm làm tù binh chiến tranh, đã cống hiến cả nhiệm kỳ của ông để hàn gắn và xây dựng một mối quan hệ dài lâu giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Năm 1999, tại Thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra lễ khánh thành Lãnh sự Quán Mỹ trên nền Tòa Đại sứ Mỹ cũ. Trong buổi lễ hôm ấy còn có sự tham dự của một cựu chiến binh khác, đó là Thượng nghị sỹ tiểu bang Nebraska Chuck Hagel - người sau này đã trở thành Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dưới thời tổng thống Obama. Đó là một biểu tượng sinh động cho sự hoà giải giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Ảnh: Cựu chiến binh Pete Peterson trong vai trò là Đại sứ đầu tiên của Mỹ tại Việt Nam sau năm 1975 đến chào Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình

 

Ảnh: Bộ trưởng Chuck Hagel cùng phái đoàn quốc phòng Mỹ trong một lần làm việc với Bộ quốc phòng Việt Nam

 

Trong tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, có một nghịch lý đó là những người từng tham chiến lại trở thành nhà tiên phong trong hàn gắn quan hệ giữa hai nước như nhận xét của Thượng nghị sĩ John Kerry: “Những người ủng hộ bình thường hoá có thể bị gán cho là phản quốc ở cả hai nước. Điều nghịch lý là thúc đẩy hoà bình và hòa giải giữa hai nước lại được dẫn dắt bởi những người tham chiến nhiều nhất là những cựu binh”. Trong tiến trình này, những cựu binh Mỹ được nhắc đến ở trên chỉ mang tính chất đại diện cho những nỗ lực chung của cộng đồng các cựu binh Mỹ nhằm hàn gắn mối quan hệ giữa hai nước. Họ đã đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hàn gắn vết thương chiến tranh Việt Nam, xóa bỏ những trở ngại trong quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Mỹ, đồng thời đặt viên gạch đầu tiên cho những bước phát triển trong hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước trong giai đoạn về sau.

Xây đắp mối quan hệ hướng tới tương lai giữa hai nước

Trong lịch sử hiện đại, khi các biện pháp ngoại giao chính thống giữa các nước gặp trở ngại thì các phương thức ngoại giao nhân dân sẽ mở ra cánh cửa để hai phía tiếp cận được nhau. Thế giới đã từng chứng kiến các hình thức ngoại giao bóng bàn, ngoại giao bóng rổ, ngoại giao văn hóa... Trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Hoa Kỳ, phương thức ngoại giao "cựu chiến binh” có một vai trò hết sức nổi bật. Các cựu chiến binh là những người trực tiếp tham chiến, trong những giây phút sinh tử của cuộc chiến, luôn tìm mọi cách để tiêu diệt nhau, bây giờ chiến tranh đã trôi qua, nếu họ dũng cảm bỏ qua quá khứ, ngôi lại với nhau, sẽ là thông điệp tốt nhất chuyển đến tiến trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao, vì họ là những người trả giá cao nhất, hiểu rõ nhất cái giá phải trả của chiến tranh. Trong các chuyến thăm gần đây của các nguyên thủ Hoa Kỳ đến Việt Nam, Tổng thống B.Obama và D.Trump đều nhắc tới vai trò của các cựu chiến binh trong quá trình hòa giải của hai nước. Hình thức Ngoại giao “Cựu chiến binh” đã trở thành một thông điệp khi các cựu thù năm xưa ngồi với nhau, hiểu nhau và cảm nhận được những mất mát lớn lao của chiến tranh và cái giá của bảo vệ nền hòa bình, để cùng cầu mong giữa hai dân tộc sẽ chỉ có hòa bình, hợp tác như tinh thần hiệp ước đã ký kết của lãnh đạo hai nước như Đại tá Charlie Tutt - Trưởng đoàn phi công Mỹ trong một lần đến thăm Việt Nam đã phát biểu: “Chúng ta trở nên gần gũi hơn, càng hiểu và đánh giá về nhau cao hơn nhờ những cuộc gặp ý nghĩa này, hy vọng điều này sẽ kéo hai nước chúng ta lại gần nhau hơn”.

Ảnh: Tổng thống Mỹ Bill Clinton bắt tay người dân Hà Nội sau khi đi thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám trong chuyến thăm đến Việt Nam hồi năm 2000. (Nguồn: AP)

 

Sau khi bình thường hóa hai nước đã thiết lập và duy trì mối quan hệ chính trị, ngoại giao tích cực. Lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Mỹ đã thực hiện 6 chuyến thăm chính thức tới Thủ đô của hai nước: Tổng thống Mỹ Bill Clinton, George W.Bush, Barack Obama và Donald Trump thăm Việt Nam vào các năm 2000, 2006, 2016 và 2017; Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Xuân Phúc đã thăm chính thức Hoa Kỳ vào 2005, 2007, 2008 và 2017. Cho đến năm 2009, thương mại hai chiều Việt - Mỹ đã đạt tới 15,6 tỷ USD (tăng hơn 30 lần so với năm 1995). Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, là nhà đầu tư lớn thứ nhì vào Việt Nam với số vốn lên tới 9,8 tỷ USD, chiếm 25% tổng số FDI vào Việt Nam. Tới năm 2013, Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện dựa trên các nguyên tắc tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.

Ngày nay, những cựu binh Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thúc đẩy những sự hoạt động giao lưu, tăng cường mối quan hệ giữa hai nước, đặc biệt trong các lĩnh vực: cung cấp thông tin liên quan đến bộ đội Việt Nam mất tích trong chiến đấu; giáo dục thế hệ trẻ Mỹ về hoà bình, hậu quả chiến tranh, đấu tranh vì nạn nhân chất độc màu da cam hai phía,. . . và đã đem lại nhiều kết quả tích cực. Tính đến nay, chỉ riêng trong khuôn khổ chương trình "Sáng kiến các cựu chiến binh", các cựu binh Mỹ đã sang thăm và chuyển giao cho phía Việt Nam 304 bộ hồ sơ với khoảng 12.000 trường hợp bộ đội Việt Nam mất tích trong chiến đấu, qua đó giúp Việt Nam tìm kiếm, quy tập khoảng 1.500 hài cốt liệt sĩ. Những đóng góp trên đã góp phần không nhỏ củng cố và nâng tầm mối quan hệ giữa hai nước

Nguyễn Trọng Minh